Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

BÀI CA THÁNG NĂM


Tháng năm này nóng lắm phải không em?
Khi cái hạ đổ nồng oi vào đất
Em bận việc nhà, em lo việc nước
Lại nữa làm thơ lên án giặc Tàu
Tháng năm này lại thêm những cơn đau
Đau cái bụng ẩm ương
Đau con tim khó bảo
Em vẫn lòng thơm thảo
Vẫn những buổi chiều trao anh…

Tháng năm này trời cao mây xanh
Bằng lăng tím một màu đường phố
Khiến anh nhớ ngày này năm cũ:
Câu thơ đầu tiên nuông nã ta-mình
Rồi ta đưa nhau vào cõi sinh tình
Rồi dắt tay nhau  vào ánh sáng
Trí tuệ diễm huyền, tình yêu sáng láng
Ta gọi thầm trong dào dạt tim yêu:
Em nữ thần cho anh nâng niu
Anh thiên tài cho em âu yếm

Tháng năm ấp ôm trìu mến
Tháng năm ngào ngọt say lời 
Tháng năm mắt tình xao xuyến
Tháng năm rạng rỡ mắt cười… 

ĐỌC THƠ NGÔ THÁI


Tôi đang có trên tay tập thơ “Thơ và bầu bạn” của Ngô Thái (Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2012).
Quê hương Đất Tổ; nguyên là một đội viên, rồi là một cán bộ chỉ huy thanh niên xung phong; tiếp xúc với nhiều miền quê, nhiều con người, trải qua hơn nửa thế kỷ, thơ Ngô Thái như là bức họa muôn màu, cũng là tập tự sự về hiện thực cuộc đời đã đi qua. Như vậy, có thể nói được rất nhiều điều về thơ Ngô Thái.
Tuy nhiên, khi giới thiệu một tập thơ nào đó, tôi cố tìm ra những nét riêng của tập thơ ấy, chứ không đề cập tràn lan tất cả những gì có trong tập thơ, ngay cả những điều rất đáng được nêu lên - chẳng hạn, trong tập thơ này là về cuộc đời của người đội viên, người cán bộ thanh niên xung phong; về quê hương Đất Tổ; về Tổng Công ty Giấy Bãi Bằng . Những gì đáng lưu ý trong thơ Ngô Thái?
Về bạn, với  bạn – đúng như tựa đề tập thơ ghi.Theo trình tự của tập thơ, ta thấy rõ điều đó.
Với Sĩ Tân, Ngô Thái đi Chợ Viềng; tặng NH và  “Hẹn; với Diệu Thu là “Nửa nào…?”; tặng cháu Kim Chuyền “Ngời ánh gương”. Với Vũ Giang – người bạn thơ, bạn đời thân thiết, Ngô Thái có “Quê hương”:
                             Minh Nông…
                              Mùa gặt tôi về
                              Đường làng ngõ xóm bộn bề rạ rơm
Thoảng mùi gạo mới cơm thơm
Dẻo thơm giống lúa Nàng Hương quê nhà! Và để rồi, ở phần họa thơ, Vũ Giang có đến bốn bài thơ họa thơ Ngô Thái như “Đang độ trăng tròn”,”Tìm nhau mai hậu”, “Kỷ niệm tháng năm”. Và Bởi em màu tím” với lời thơ nồng nàn:
         Nhớ nhành hoa tím thương yêu
         Ngẩn ngơ trong dạ một chiều đầy vơi
         Tím lòng tím cả mây trời
          Gửi bông hoa tím một lời thủy chung.
Ngô Thái còn có thơ với nhiều bạn thơ khác nữa: Cúc Nguyễn, G7, Ngô Đức Tâm, Ngô Toàn Thắng (và được Ngô Toàn Thắng viết nhiều về anh ở phần giao lưu và bình luận thơ Ngô Thái), Thang Ngọc Pho, Phan Chúc, Mai Ngân, Bạch Thiên Hương, P.N và N. H, Phạm    Huy Thông, Đinh Phạm Thái, Bành Thanh Bần, Off Mùa Thu 2012…
Qua đó, thấy rõ, thơ Ngô Thái thể hiện tính thân thiện và tình thân ái với bạn trên thơ và bạn trong đời thật bao la và sâu nặng.
2. Với tinh thần ấy, Ngô Thái có nhiều bài thơ  như là chân dung các cô gái xinh đẹp.
Về hình thể:
                             Tuổi em đang độ trăng tròn
                              Vai trần đã vậy, yếm còn hẹp ngang!
                               Nước da trắng nõn mịn màng
                               Hồn căng sức trẻ…khuôn vàng thơ ngây
                                                                   (Tuổi trăng tròn)
       Hay:
                              Vô tình. Một khoảnh khắc thôi!
                               Em. Khuy áo ngực buông lơi chưa cài
                               Ửng hồng e lệ mắt nai
                                Tim anh loạn nhịp. Bởi ai hớp hồn?
                                                     (Khoảnh khắc)
Về tâm hồn:
                                   Mới qua tuổi trăng tròn
                                    Tâm hồn em trong trắng
                                     Một tình yêu say đắm
                                     “Lỡ nhịp” bởi chiến tranh
                                      Bước qua tuổi xuân thì
                                     Còn nét duyên con gái
                                     Vị hương đời để lại
                                      Vơi nỗi buồn cô đơn
                                                                    (Hương đời)
Về điều này, thấy rõ Ngô Thái là một nhà hội họa say tìm cái đẹp, mà trong trường hợp ở đây là cái đẹp của người phụ nữ. Điều đó cắt nghĩa thêm về tình đời tình người thắm đẫm trong nhà thơ Ngô Thái.
3.Những gì ta đã nói về thơ Ngô Thái là cảm xúc trào dâng được bộc lộ  về (và với) con người. Song hành với đó là nỗi niềm trầm lắng mà ít ai nhận ra ở nhà thơ. Ngô Thái thắp hương khấn vợ:
        Anh thắp lên một nén hương trầm
        Mong khói nhang gửi lòng anh thương nhớ
        Vượt qua bờ âm dương cách trở:
       “Vĩnh viễn trường tồn –Em Người Vợ Đảm Đang)                            (Nén hương trầm)

Đeo một nỗi buồn ở tuổi già, nhà thơ căn dặn các con hãy thông cảm với mình về những gì bất ổn sẽ xảy, rồi kết luận như là lời cầu xin kẻ hậu thế:
             Hãy tiếp sức cho Cha những bước đường còn lại
              Để Cha vui đi hết chặng đường đời
              Cha yêu các con – một tình yêu bất tận
              Thương các con – Cha nhắn gửi đôi lời!
                                                     (Tâm sự tuổi xế chiều)
Vậy đó, một tâm hồn thi ca phơi phới, xôn xao xen với nỗi niềm, trầm lắng được thể hiện khá chuẩn chỉnh và hấp dẫn. Là người làm thơ Đường luật, Ngô Thái sử dụng ngôn từ và vần luật khá mực thước, với các dạng thơ khác nhau: Thơ lục bát; thơ khổ với dòng ở mỗi bài có số chữ khác nhau; thơ tự do…phù hợp với ý tưởng thi ca của từng bài thơ nhất định.
Cảm ơn và chúc mừng nhà thơ Ngô Thái về tập “Thơ và bầu bạn”. Chúc nhà thơ giành được nhiều thành công hơn nữa trên con đường sáng tạo thi ca của mình.

Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Truyện ngắn lịch sử-văn hóa tâm linh CÔNG CHÚA MỸ HOA Mai Thanh



   
Vào đầu thế kỷ 18, Hưng Giáo là một làng quê thuộc huyện Thanh Oai với dòng sông thơ mộng ấp ôm đồng lúa, bãi ngô và nương dâu xanh mướt. Cuộc sống yên bình trong nghề cấy lúa, trồng ngô, canh cửi pha chút bán mua tơ lụa với phố thị mãi tận Hà Đông và Thăng Long thành, khiến Hưng Giáo như một cô gái quê xinh đẹp mang dáng vẻ thị thành. Ở Hưng Giáo có ông Nguyễn Công Cau là tộc trưởng của gia tộc Nguyễn Công. Ông Cau có cô con gái tên là Nguyễn Thị Trầu tròn tuổi 17, xinh đẹp, nết na, đặc biệt, Trầu là một thầy thuốc giỏi, chữa bệnh cứu người cho cả vùng vượt ra cả miền đất Thanh Oai này.  Cảnh sống yên vui đó bỗng bị ập xuống bởi một tai nạn bất ngờ: Nạn dịch tả như là gã thần chết tham lam cướp đi không chỉ của Hưng Giáo mà cả vùng Thanh Oai, thậm chí lây lan đến cả vùng tiếp giáp thành Thăng Long, cướp đi  hàng trăm mạng người. Bệnh lạ phát triển nhanh, khiến cô Trầu  ngơ ngác và rất đau lòng vì thấy mình bất lực trước đại dịch dịch này.  Các nhà chức trách trong vùng dâng bản tấu trình vua Lê Dụ Tông (Niên hiệu Bảo Thái: 1720 - 1729) về nạn dịch này mong được cứu giúp, song triều đình cũng đành bó tay. Trong khi đó, Lê Kim Thành, quê làng Hưng Giáo, đang là cận thần trong Phủ chúa Trịnh có ý định dâng cô Trầu vào cung vua để cô tim cách chữa bệnh. Nhưng cô đã khước từ, đêm đêm trằn trọc không ngủn ngày ngày tiếp cận bệnh nhân để tìm cách cứu nhân độ thế!
Dân làng không hy vọng ở sự cứu giúp của nhà vua, dân cư trong vùng hoang mang đến cực điểm, họ tụ hội ở làng Hưng Giáo, bàn  Họ tìm được thầy mãi tận chân núi Tản, mang theo võng đay, cáng thầy về Hưng Giáo. Một vị linh thánh nhập hồn vào thầy và phán: Dân làng nghe ta nói đây:
- Trong làng này có dòng họ Nguyễn Công?
Nhiều người đồng thanh:
-Lạy thánh mớ bái, dạ có ạ!
Một ông tuổi trung niên, tóc hoa râm khúm núm, bước tới trước thánh: -Dạ, thưa linh thánh, con là Nguyễn Công Cau, là trưởng tộc Nguyễn Công ạ!
- Phải, ta biết! Nhà ngươi có con gái tên là Nguyễn Thị Trầu, đúng không?
-Dạ, Thưa linh thánh, phải ạ!
- Sáng ngày mai, Trầu sẽ đi ra khỏi nhà, không ai được ngăn cấm: Trầu sẽ làm nhiệm phận để cứu dân làng, rõ chưa?
Ông Cau và nhiều người khác: - Dạ, thưa linh thánh, chúng con rõ rồi ạ!
Chưa nghe hết câu trả lời, hồn linh thánh đã thoát khỏi thân xác thầy – thấy nằm lăn ra trên chiếu, thở phì phì:
-Tôi đang ở đâu thế này? À, nhớ ra rồi, ở làng Hưng Giáo!


                                              *
                                            *   *

  Vào sáng tinh mơ hôm sau, cô Trầu dậy sớm chẩn bị cho chuyến đi của mình: Một tay nải đựng tư trang gồm cả một gói cơm nắm kẹp thêm gói muối vừng, một bị cói to mà cô vẫn dùng để đựng thảo dược tươi tìm kiếm được khi hái thuốc trong rừng. Rồi cô ra đi lúc bình minh chưa hé. Người cha căn dặn: “Con cố tìm được dược mộc chữa cho dân làng và cả vùng miền để tỏ lòng nhân đức của dòng họ Nguyễn Cao nhà ta!”. “Vâng ạ, con xin nghe lời cha!” – cô đáp lời  cha một cách tự tin.
Cô Trầu theo hướng Tây, đi về phía Hương Tích; đi mải miết quên cả ăn cơm nắm mang theo. Đã về chiều, chân mỏi rã rời, cô đến được một cánh rừng um tùm rậm rạp với cây tán hẹp và cây dây leo chằng chịt – nơi mà cô chưa đến lần nào trong các lần đi tìm cây thuốc trước đây. Tay vạch lá, mắt quan sát, cố tìm những loại lá cây gần giống với những loại lá cây chữa bệnh đường tiêu hóa mà cô đã tìm trước kia. Bỗng mắt cô hoa lên, người ngây ngất và như thiếp đi mấy giây. Khi mở mắt ra, trước mắt cô là một thảm  rộng xanh rờn thứ dây leo mà lá như “cánh nhạn bay” dịu dàng, rung rinh cùng gió rừng đượm màu thiền uyển. Như được mách bảo, cô Trầu coi đây là thứ lá mình đang cần. Cô hái lấy hái để, chẳng mấy chốc bị cói của cô đã đầy lá “cánh nhạn bay”. Cô muốn nói lời cảm ơn cụ thể đến ai đó là người cho lá, nhưng đó là ai, thì cô không biết được, nên đành nói lời cảm ơn chung chung nhưng rất nho văn, mà cô vẫn dùng sau mỗi lần hái dược thảo: “Hành ân thụ ân; Hành phúc thụ phúc!” (Làm ơn nhận ơn; làm phúc nhận phúc!). Trầu ra về, trời đã hoàng hôn.
Cô nói với cha về chuyến đi hái thuốc của mình và nhờ cha nói với dân làng lập cho cô một đàn tràng để cô làm lễ khấn niệm Thiên-Địa. Trong buổi lễ, Trầu khấn nôm: “Lá “ánh nhạn bay” là thực thể, Trời-Đất là tâm linh. Xin thực thể và tâm linh hãy hòa quyện vào nhau để cứu dân tình thoát khỏi cơn nguy biến!”. Khấn rồi, cô trao cho mỗi người - kể cả người đang hoặc chưa mắc bệnh - một chiếc lá “cánh nhạn bay” mang về “rang vàng hạ thổ” chêm vào vài hạt muối uống vào vào sáng tinh mơ. Trầu giao bị lá còn lại cho  hương trưởng để phát cho mọi người trong huyện và trong vùng miền đang bị nạn dịch hoành hành.
Kỳ lạ thay! Tất cả ai uống lá “cánh nhạn bay”, với người đang mắc bệnh – khỏi ngay lập tức; với người chưa mắc bệnh – không mắc bệnh nữa!
Làng quê Hưng Giáo cùng cả vùng miền hân hoan cao độ và vô cùng biết ơn cô Trầu – người cứu mạng vô cùng đức độ và nhân văn!

 
                                               *
                                            *     *

Làng Hưng Giáo và vả vùng miền thoát nạn dịch bệnh khủng khiếp, làng quê trở lại yên vui, dòng sông quê ấp ôm quê làng cũng hát lên bài ca an lạc.
Song, đớn đau thay! Đó lại là lúc làng Hưng Giáo và cả  vùng miền khóc than, thương tiếc người con gái đức độ và nhân văn ấy đã “ra đi”.
Kể rằng, sau khi cúng đàn tràng và phát lá “cánh én bay” cho mọi người, trở về nhà, chỉ sáu khắc sau đó, cô Trầu phát bệnh – chính cái bệnh dịch đang hoành hành ấy. Thế là cô “ra đi”. Điều lạ là cô “ra đi” khi tròn tuổi 17, vào ngày 17 và 17 cũng là ngày sinh của cô.  Mọi người vô cùng thương tiếc, họ than khóc râm ran và cùng nhau lo tang  lễ mai táng cô, đưa cô về chốn vĩnh hằng.
Buổi chiều hôm ấy, khi dân làng đưa cô ra đồng, thì bất chợt, trời đất nổi cơn mưa dông dữ dội. Sân làng tạm dừng, vào trú mưa quanh đó. Khoảng nửa khắc sau, mưa dông tan hết, mọi người trở ra tiếp tục công việc đưa tang, thì lạ thay: Quan tài của cô Trầu đã chìm sâu vào một gò đất mới – gò đất tươi rói vẫn đang tiếp tục tự nâng cao lên. Ai nấy đều phủ phục trước gò đất mà vái lạy, khấn niệm rì rầm đến khi trời sập tối.
Dân làng lập đền thờ cô và gọi cô là Bà Trầu. Người người gần xa tấp nập đến miếu lễ Bà không chỉ vào  ngày giỗ Bà, vào ngày lễ tết, mà vào cả ngày thường, khi ốm đau bệnh tật, bởi họ tin rằng, Bà vẫn chữa bệnh cho mọi người như khi Bà còn sống. Nhiều nơi có miếu hoặc đền thờ Đức Trầu. Bà được tôn vinh cùng các nhân vật tâm linh trong văn hóa Việt Nam.
Quả vậy, bà còn sống mãi không chỉ trong ý thức tâm linh của những ai đến các đền miếu để lễ bà, mà còn sống qua cách lưu lại những nét đặc trưng của Bà cho những thế hệ tiếp nối trong dòng họ Nguyễn Công. Điều rất rõ là các cô gái hoặc phụ nữ họ Nguyễn Công đều xinh đẹp, tài năng và đức độ ở mọi thời kỳ lịch sử. Xưa, họ là những cô gái  hoặc các chị phụ nữ đẹp người, đẹp nết, nền nã gia phong. Nay, họ là những cô gái hoặc các chị phụ nữ xinh đẹp, làm khoa học, hoạt động kinh doanh, là nhà thơ, nhà văn, nhà văn hóa có tiếng tăm…   
Hơn hai trăm năm đã trôi qua, tuy chỉ là một cái đền nhỏ, nhưng ở đó,  hình ảnh một thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp, đức độ - nhân văn của làng Hưng Giáo và cả vùng miền vẫn chói lọi như một thần y từ mẫu. Nhiều giai thoại thiêng liêng, huyền diễm về Bà vẫn được lưu truyền trong dân gian. Ví dụ,  có một chàng nho sinh lãng du chèo thuyền theo dòng kênh tiến thẳng vào trước cửa đền Bà. Khi đến gần cửa đền, thuyền bị quay ngang, không thể nào điều khiển được. Chàng nho sinh  đành áp thuyền vào bờ kênh, ngồi nghỉ cho lại sức. Nhân cảnh quan ngoạn mục, đối cảnh sinh tình, chàng nho sinh sáng tác, rồi hát một bài chầu văn khá hay. Lời hát bay bổng theo gió đưa vào đền. Bài hát chấm dứt, bỗng nhiên, con thuyền tự tách khỏi bờ, quay mũi vào cửa đền. Chàng nho sinh chỉ đưa nhẹ mái chèo, con thuyền đã có thể lao vút lên phía trước tiến vào sát cửa đền. Khi ai đó kể chuyện này đều chêm vào một câu nói vui nghe ra rất có lý: “Bà Trầu trêu chàng nho sinh nọ, vì Bà có “cảm tình” với chàng!. Đừng nghĩ rằng, các vị thánh thần chỉ biết quở phạt, mà còn biết vui đùa, thể hiện tình cảm với người trần nữa cơ đấy!”.

    
                                                  *
                                               *     *
                              
 
 Nguyễn Lan Nhi - hậu duệ thứ mười của Công chúa Mỹ Hoa - là một người đàn bà thông minh và xinh đẹp - hẳn là Lan Nhi được thừa hưởng gien di truyền của Bà Tổ Mẫu gia tộc Nguyễn Công. Tuy không biết nghề làm thuốc chữa bệnh cứu người như Bà, nhưng bù vào đó, Lan Nhi là một nữ doanh nhân thành đạt, một nữ thi sĩ nổi tiếng, được nhiều người biết đến. Ngồi trước chiếc Laptop đời mới hiển thị trên màn hình những trang tư liệu về Bà Tổ Mẫu, Lan Nhi lật giở, rồi chụp ảnh bốn bản sắc phong. Cô ngẫm nghĩ: “Khi mà tình trạng y học nước nhà với công việc chăm lo sức khỏe cho dân như hiện nay, chân dung Bà Nguyễn Thị Tôn Thần - Bà Trầu cần được nêu gương trong y giới. Điều đó quả thật đáng làm”. Và cô đang góp phần làm việc đó. Cô bấm máy gọi cho người bạn thân là một nhà văn hóa hiểu biết nhiều và rất tin cậy trong lĩnh vực văn hóa - cũng đã có vài ba lần hai người nói chuyện trực tiếp với nhau về Bà Công chúa Mỹ Hoa. Lần này, họ trao đổi với nhau qua điện thoại khá lâu. Người bạn nói với Lan Nhi rằng, hình ảnh Bà Trầu đã in đậm trong văn hóa tâm linh người Việt. Tuy nhiên, về nghiên cứu, khảo sát cũng như về tu bổ, dựng xây đền miếu về Bà chưa được thực thi đúng tầm vóc một nữ thần như Bà. Nhà văn hóa gợi ý với Lan Nhi rằng, nên kiến nghị để được tiến hành hai bước – bước nghiên cứu, khảo sát và bước tu bổ, xây dựng. Mỗi bước có vai trò và kết quả nhất định. Bước trước làm cơ sở cho bước sau. Hoàn thành bước trước đã là một kết quả đáng kể. Bước sau là kết quả cao hơn, là khẳng định và xúc tiến kết quả của bước trước. Là người phụ nữ thông minh, giỏi giang và hiểu biết, Lan Nhi tiếp thu nhanh lời khuyên của nhà văn hóa và cô đã dự kiến được ngay công việc phải làm cho Bà Tổ Mẫu. Cô có ý định nghỉ phép một tuần, để đến các viện khoa học xã hội như Viện Hán Nôm, Viện Lịch sử, rồi tiếp đến là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch… Lòng cô rộn lên niềm vui thơ thới cùng với niềm tin thành công về công việc mà cô đang bắt đầu – công việc không chỉ cho riêng cô, cho gia tộc Nguyễn Công, mà cho cả cộng đồng người Việt với văn hóa tâm linh. Cô cất lên nhè nhẹ lời bài hát chầu văn do chàng nho sinh thuở xưa sáng tác và hát khi chèo thuyền lãng du vào Đền thờ Đức Trầu:
 “Chữa bệnh cứu người, í i…, chữa bệnh cứu người!
   Đền linh, í i… mà miếu nghiệm, í i…, cho đời, cho đời không quên…”.
Đúng, đời không bao giờ quên Nguyễn Thị Trầu - Bà Trầu - Mỹ Hoa Công Chúa - Nguyễn Thị Tôn Thần - Đức Trầu và những linh thần khác như Bà!

                               Hà Nội, Mùa Xuân Giáp Ngọ (2014)
                                                         M.T


Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

TÌNH YÊU MÀU QUAN HỌ Truyện ngắn

Tôi biết anh từ một lần gặp gỡ trên đường hành trình về Hội Lim trong mùa xuân cách nay gần ba năm – khi tôi là thành viên của đoàn Trung tâm văn hóa thành phố và anh là người phụ trách đoàn Câu lạc bộ thơ Tháp Bút. Hai đoàn chúng tôi gặp nhau khi dừng lại nghỉ chân, để rồi chỉ đi một đoạn đường ngắn men theo bờ sông vào lễ hội. Riêng tôi lại gặp anh từ một nụ cười, vâng một nụ cười mà tôi không thể gọi đó là gì, chỉ thấy rằng tôi không thể quên và bỏ được nụ cười ấy! Còn anh, chắc chắn là anh cũng bị tôi thu hút, nhưng bằng gì, thì lúc đó tôi chưa biết được. Chỉ biết rằng, từ lúc ấy, chắc là anh cũng giống tôi, cảm thấy rằng, rất muốn gần gũi nhau. Là người phụ trách đoàn, anh dùng quyền của mình tuyên bố như vừa ban lệnh, lại như vừa hỏi ý kiến: “Hai đoàn Bút Tháp và Trung tâm văn hóa nhập chung thành một đoàn, nha các bạn!”. Bấm đúng tâm lý thích đàn đúm, mọi người reo lên: “OK!”, “Xong ngay!” , “Đồng ý, giơ cả hai tay!”…Thế là hai đoàn chúng tôi hòa vào nhau, tiếp tục đoạn đường vào hội, râm ran tiếng nói cười vui vẻ. Đến hội, các liền anh, liền chị đã bắt đầu với bài hát “Mời trầu”: “Trầu này trầu tính trầu tình/Ăn vào cho đỏ môi mình môi ta/Không ăn cầm lấy về nhà/Buộc vào dải yếm cho ta nhớ mình”… Rồi tiếp tục, các liền anh liền chị hấp dẫn chúng tôi qua các lời ca quan họ mượt mà dịu ngọt. Tôi đặc biệt xúc động với bài hát “Giao duyên”: “Anh còn son em cũng còn son/Ước gì ta được làm con một nhà/Em về nói với mẹ cha…”. Bỗng anh liếc mắt nhìn tôi, mỉm cười…ôi, lại nụ cười…Tôi vờ như không để ý, mà chăm chú nhìn lên sân khấu. Tự nhiên, tôi cảm thấy có gì không phải với anh, tôi liếc nhìn anh như chuộc lại phút giây giả vờ thơ ơ của mình. Anh nhìn lại, bốn mắt chúng tôi gặp nhau, cả hai cùng mỉm cười đầy ngầm ý. * * * Hội Lim giã bạn với bài “Người ở đừng về”. Anh và tôi chia tay với việc trao nhau số điện thoại, địa chỉ Email và cả địa chỉ nhà ở, cuối cùng là những chiếc… hôn gió. Ngồi trên hai xe khác nhau trở về Hà Nội, tôi ngẫm nghĩ miên man về cuộc gặp gỡ với anh trong chuyến đi lễ hội lần này. Thật tình, tôi đã có những gặp gỡ, rồi quen biết vài ba người bạn trai kể từ khi tôi đến thì con gái. Họ mỗi người một vẻ, không ai giống ai, nhưng tất cả họ đi qua tôi như một cơn gió thoảng. Điện thoại của tôi “tít tít” báo có tin nhắn, tôi bật máy: “ Anh con son, em cung con son/Uoc gi ta se lam con mot nha…”. Tôi nhắn lại: “Ta ve xin phep me cha…”. Với trò chơi tin nhắn, tự nhiên như chúng tôi đã ngỏ lời yêu và như đã là của nhau rồi. Vẫn với trò chơi tin nhắn, chúng tôi nói chuyện với nhau không biết chán qua những con chữ không dấu. Trong một lần anh nhắn tin: “Em yeu anh vi dieu gi?” Tôi nhắn lại: “Khong biet!”. Trả lời thế, nhưng tôi biết quá đi chứ! Như tôi cảm nhận trong buổi đầu gặp gỡ: Nụ cười! Kể cũng lạ, Nụ cười thường là ở người con gái hấp dẫn người con trai, nhưng trong trường hợp của chúng tôi, thì ngược lại! Không, thật ra không hẳn chỉ là nụ cười, mà còn những gì khác nữa ở anh đã hấp dẫn tôi. Tôi nhớ lại nội dung cuốn sách dịch “Điều kỳ diệu của tình yêu” của một nhà khoa học nước ngoài nói đại ý: Mỗi người - nam cũng như nữ - đều phát ra các dòng điện sinh học, trong đó có dòng sinh học tình yêu với tần sổ nhất định. Khi hai dòng sinh học khác giới gặp nhau trùng hợp tần số, thì nảy sinh tình yêu giữa họ với nhau bất kể hoàn cảnh, trình độ, tuổi tác…Phải chăng tôi và anh đã trùng hợp tần số trình yêu? Tôi lại nhắn tin hỏi anh: “Vi sao anh yeu em?” Tin nhắn trả lời: “Chưa noi, con lau moi noi!”. * * * Hôm ấy, anh gọi điện thoại rủ tôi đi lễ Đền Hùng. “Anh đón em ở ngã tư Vọng, cách cửa nhà tôi khoảng 50m!”. Tôi sốt sắng: “Ok!”. Đúng sáu giờ rưỡi sáng chiếc xe hãng Camry đợi tôi ở điểm hẹn. Anh xuống xe mở cửa đón tôi vào ngồi ghế trên, bên anh. Chiếc xe con đưa chúng tôi qua cầu Chương Dương, vượt qua cầu Đuống, tiến thẳng lên phía Đền Hùng. Trên đường đi, để anh tập trung bảo đảm an toàn tay lái, tôi hầu như im lặng, không nói chuyện với anh. Ngược lại, anh vừa lái, vừa nói chuyện thoải mái. Xe đi qua mỗi vùng quê trên đường, anh đều kể về lịch sử, tập quán, lợi thế kinh tế của vùng quê ấy, chẳng hạn khi đi qua những triền đất đỏ trung du, anh giải thích: “Chính vùng đất đỏ trung du mới là vùng đất lợi thế cây trồng, bởi ở đây có thể trồng được nhiều loại cây, không chỉ cây lương thực mà còn cây công nghiệp và cả chăn nuôi nữa, đúng như một nhà kinh tế học cổ điển châu Âu nói rằng, “với đất đai, vấn đề không phải là tính màu mỡ, mà là tính đa dạng của nó…”. Nghe anh kể, tôi hiểu, anh thật sự anh là một thanh niên hiểu biết vừa rộng vừa sâu – tôi không muốn dùng chữ “uyên bác” e rằng quá to tát. Bỗng bất chợt, anh ghìm chậm tốc độ, quay sang hỏi tôi: “Giang này – anh gọi tên tôi – cha mẹ đặt tên em là Giang có ý nghĩa gì?”. Đang bị thuyết phục bởi sự hiểu biết của anh, lại bị hỏi bất ngờ, tôi bỗng bột phát nghĩ ra một câu trả lời đầy tính đối đáp nhưng cũng táo bạo (mà sau này nghĩ lại tự cảm thấy mình có phần “vô duyên”): “Vì anh là biển – tên anh là Hải – nên em là sông…!”. Anh trợn tròn mắt nhìn tôi như ngạc nhiên, không biết bởi tính đối đáp hay tính táo bạo của câu trả lời. Đến khu Đền Hùng, xe dừng bánh. Anh xuống xe, đi vòng sang mửa cửa xe dắt tôi bước vào khu Đền… Đứng trước Đền Thượng, chúng tôi dâng hương và khấn niệm Vua Hùng. Lời anh lầm rầm nhỏ nhẹ, đủ để tôi nghe được:“Con xin Tổ Vương phù hộ cho chúng con được thành vợ, thành chồng…”. Tôi suýt phì cười, vì bỗng nhớ lại có lần cô bạn tôi kể: Cô cùng đi với người yêu vào lễ Phủ Tây Hồ. Anh chàng không biết do ngổ ngáo hay do quá thật thà, khấn niệm: “Con lạy bà Chúa Liễu-Mẫu Nghi thiên hạ, cho con được ăn cùng nồi, ngủ cùng giường với cô gái đang đứng bên con…”. Anh dắt ta tôi đi khắp khuôn viên Đền Hùng. Rồi vào Đền thờ Mỵ Châu: Đập vào mắt chúng tôi là tượng Công chúa Mỵ Châu với xiêm y lộng lẫy, nhưng cụt dầu. Tôi thở dài. Anh bùi ngùi. Giọng anh mềm mại, nhưng kiên quyết: “Nhiều người ngợi ca mối tình Mỵ Châu – Trọng Thủy. Anh nghĩ khác. Đó là mối tình lừa đảo. Người bố Triệu Đà lừa đảo và truyền cái lừa đảo ấy cho con là Trọng Thủy. Khi Trọng Thủy ăn cắp lẫy nỏ thần, hắn biết quá rõ là hắn lừa đảo không chỉ Thục Phán mà cả Mỵ Châu, để thực hiện hành vi tồi tệ đó! Rồi anh trích đọc mấy câu thơ mà tôi không biết thơ ấy là của ai: “Yêu chi yêu lời cha hắn/Yêu chi yêu cây nỏ thần/Còn bày đặt cái trò “lông ngỗng”/Làm mẹo lừa tình hay làm kế sát nhân?...”.Tôi cãi: “Nhưng cuối cùng Trọng Thủy cũng nhảy xuống giếng tự tử mà chết vì tình, đó sao!”. “Không, đó là cái chết ân hận vì tội lỗi, chứ không phải là chết vì tình yêu! Chẳng qua là người đời nhân hậu mà thêu dệt thành chuyện tình yêu của họ như thế! Tôi thật bất ngờ, bởi chính Trung tâm văn hóa của tôi đã có lần tổ chức sinh hoạt ca ngợi “Mối tình Mỵ Châu-Trọng Thủy”, nên“cãi” lại anh, nhưng sau khi anh nói, tôi không còn bấu víu được chút lý lẽ nào để có thể bảo mối tình ấy! Chúng tôi không hòa vào đi chung với một đoàn nào đó, để nghe hướng dẫn viên giới thiệu, mà đi riêng , bởi chính anh là người hướng dẫn, giới thiệu riêng cho tôi và chúng tôi tiếp cận hầu như tất các điểm của Khu Đền. Tôi được anh truyền đạt hầu như tất cả những gì cần biết về Đền Hùng, nói đúng hơn là về buổi đầu dựng nước. Chúng tôi ra về tuy hơi mệt, nhưng rất vui về một chuyến đi thật mỹ mãn! Từ Đền Hùng về đến Hà Nội, trời đã hoàng hôn, anh rủ tôi đi ăn cơm tối ở cửa hàng ăn đặc sản, nhưng tôi cảm ơn và từ chối, vì lý do “về muộn sợ mẹ mắng”. Anh mở cửa, dắt tay tôi bước xuống xe. Chúng tôi trao nhau nụ hôn chia tay thật nồng nàn, anh đưa tôi một tấm Postkarte đặt trong một phong bì màu hồng, Rồi giơ tay vẫy tôi: “Bye em!”. Tôi giơ tay đáp lại: “Bye anh!”. Khi chiếc xe của anh vừa chuyển bánh, không ghìm được tò mò, tôi ghé vào quán nước bên đường, vội mở xem tấm thiếp thư mà anh vừa trao, thì đó là một bài thơ viết tay chữ rất đẹp, có tựa đề: “Mắt cười”(Yêu mến tặng Giang): Miệng cười: / Đã ngất ngây đời / Mắt cười: / Thêm nữa đất trời ngả nghiêng! / Gửi hồn vào cõi em riêng / Gửi thơ vào cõi yêu thiêng: / Mắt cười… Vậy là anh bắt đầu tìm thấy tôi trong mắt cười của tôi như tôi gặp anh trong miệng cười của anh vậy! * * * Vĩ thanh: Tuần trước, cha mẹ anh sang nhà tôi đưa lễ chạm ngõ. Bốn vị “lão thành” chuyện trò vừa trân trọng, vừa hân hoan. Tôi hiểu họ rất hài lòng về chúng tôi và bộc lộ niềm vui hể hả. Tôi và anh từ nay mỗi người có thêm hai cha mẹ nữa. Các “lão thành” bàn nhau về lễ hỏi, lễ cưới, lệ đón dâu, lễ lại mặt…Tôi và anh như là “dự thính viên” thường được hỏi ý kiến: “Ý anh Hải thế nào?”. “Ý chị Giang ra sao?”…Tôi thấy lòng mình xao xuyến, nhận ra rằng, mình sắp có một cuộc sống mới vừa vui, vừa lo, nhưng nói chung là cảm thấy hạnh phúc đang đến với mình. Ngày không xa, tôi sẽ có một người chồng thật sự vừa lòng, không phải vì gia đình và bản thân Hải có đời sống kinh tế, mà chính trí tuệ và tâm hồn anh là một kho văn hóa vô giá, không phải ai cũng có được! Bạn bè gặp gỡ chia vui với tôi trước ngày cưới. Lam Nhiên, một nữ họa sĩ - bạn rất thân của tôi, được tôi kể cho nghe về chuyện tình yêu của chúng tôi bắt đầu từ chuyến đến với Hội Lim, cô cười và phán một câu xanh rờn: “Tình yêu màu quan họ”. “Là họa sĩ, nên cậu nhìn cái gì cũng ra màu sắc! – tôi đáp lời bạn. Lam Nhiên tiếp: “Tớ sẽ trang trí phông lễ cưới của các cậu hình ảnh của Hội Lim quan họ! Tôi mỉm cười, gật đầu: “OK”! Từ ngoài, vọng vào tiếng còi ô-tô của Hải đến đón tôi đi chụp ảnh và mua sắm cho ngày cưới của chúng tôi. Bên ngoài, nắng xuân mềm mượt rải hạt ấm xuống thềm và những chậu cây kiểng lấm tấm lộc non… Đầu xuân Giáp Ngọ (2014)

TÌM EM TRONG NGUYÊN TIÊU

TÌM EM TRONG NGUYÊN TIÊU Tìm em trong Nguyên Tiêu Nghe hồn reo rạo rực Nghe hổn hà lồng ngực Nghe con tim phập phồng Tìm em trong phiêu bồng Nghe lời thơ bay bổng Nghe lòng mình thấp thỏm Nghe bước chân chềnh chàng Em hướng Tây đi sang Anh hướng Đông vòng lại Từ Khuê Môn em tới Từ Giếng Thơ anh vào Tìm nhau trong thanh cao Tìm nhau trong nguyên khí Tìm nhau trong thi trí Tìm nhau trong thi tình Đây rồi, anh đã gặp mình Yếm âu đôi mắt, bồng bềnh thi nhân Cầm tay em, dạ lâng lâng Cùng nhau nhập bước – bàn chân gọi mời Ngắm em, say…ánh mắt cười. Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội, Trưa 15 tháng Giêng – Giáp Ngọ

Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

VALENTINE - MỘT NGÀY...(Thơ cho những người đang yêu)

Sáng ngày ra Anh trao em Hộp sô-cô-la Ngọt ngào quyến rũ Trưa nắng hồng Anh dắt em Lên vòm tháp cũ Phiêu diêu Gió thổi ngọt ngào Nắng trưa thả vàng hanh hao Anh đưa em vào màu xanh cây trái Chậm rãi Chiều về Ta dãi dề ven đê Hương cỏ mật Tỏa mùi thơm Ngọt ngào đầu lưỡi Đêm về Men tình bổi hổi Dìu nhau Lên đỉnh thiêng liêng Trời bung biêng Đất chung chiêng Ngất ngây Hà hển Chao nghiêng Nuỗng nà... Tình ơi, ơi hỡi, ơi à!